Khi nào biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dân sự?

Chế định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định từ Điều 111 đến Điều 142 trong Chương thứ VIII Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, bộ luật này lại không có quy định cụ thể khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời, thay vào đó là liệt kê các biện pháp khẩn cấp tạm thời và các trường hợp mà các biện pháp này được sử dụng. Theo quy định pháp luật hiện hành, các biện pháp khẩn cấp tạm thời gồm:

  • giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục;
  • buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng;
  • buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm;
  • buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động;
  • tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động;
  • kê biên tài sản đang tranh chấp;
  • cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp;
  • cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
  • cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác;
  • phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ;
  • phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ;
  • cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định;
  • cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ;
  • cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình;
  • tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu;
  • bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án; và
  • các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định.

Theo quy định hiện hành của Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, một hoặc nhiều biện pháp trên sẽ được Tòa án xem xét áp dụng khi Tòa án nhận được đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước (Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015) nhằm một trong những mục đích sau:

  • để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Tòa án giải quyết mà cần phải được giải quyết ngay, nếu chậm trễ sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của đương sự;
  • để thu thập, bảo vệ chứng cứ của vụ án đang do Tòa án thụ lý, giải quyết trong trường hợp đương sự cản trở việc thu thập chứng cứ hoặc chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được;
  • để bảo toàn tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, tức là bảo toàn mối quan hệ, đối tượng có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Tòa án giải quyết; hoặc
  • để bảo đảm việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án, tức là làm cho chắc chắn các căn cứ để giải quyết vụ án, các điều kiện để khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành thì có đầy đủ điều kiện để thi hành án.

Tuy nhiên, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước (Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015) cũng có thể gửi đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với đơn khởi kiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nếu có một trong các căn cứ sau:

  • do tình thế khẩn cấp, tức là cần được giải quyết ngay, không chậm trễ;
  • cần bảo vệ ngay chứng cứ trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được; hoặc
  • ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra (hậu quả về vật chất hoặc về tinh thần).

Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời còn cần phải tuân thủ điều kiện riêng của từng biện pháp. Ví dụ: Theo Điều 117 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015, biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm được áp dụng thực hiện nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.

Bên cạnh đó, Tòa án cũng có thể tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không cần phải có đơn yêu cầu đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước (Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015), nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sa:

  • việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó liên quan đến vụ án đang giải quyết;
  • việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là thực sự cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách và thuộc các trường hợp theo quy định pháp luật; và
  • đương sự không làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vì có lý do chính đáng hoặc trở ngại khách quan.